Benjamin Franklin là một trong những người lập quốc nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ. Ông là một chính trị gia, một nhà khoa học, một tác giả, một thợ in, một triết gia, một nhà phát minh, nhà hoạt động xã hội, một nhà ngoại giao hàng đầu. Trong lĩnh vực khoa học, ông là gương mặt điển hình của lịch sử vật lý vì những khám phá của ông và những lý thuyết về điện, ví dụ như các khám phá về hiện tượng sấm, sét .

Benjamin Franklin (nguồn Internet)

Năm chương đầu của cuốn sách Tự truyện của Benjamin Franklin được viết ở Anh vào năm 1771, được tiếp tục vào năm 1784 – 1785 và bắt đầu viết tiếp vào năm 1788. Sau hàng loạt chuyến phiêu lưu phi thường, bản thảo đầu tiên cũng như cuối cùng được John Bigelow in ra và giờ đây được tái bản để ghi nhận giá trị của cuốn sách như một bức tranh về một trong những nhân vật đáng kính nhất trong lịch sử nước Mỹ và là một trong những cuốn tự truyện xuất sắc nhất thế giới.

Đọc cuốn tự truyện về nhân vật kiệt xuất này chúng ta sẽ nhận được nhiều bài học quý giá, đặc biệt là cách thức ông rèn luyện kỹ năng viết, tranh luận hay quá trình rèn luyện nhân cách của ông. Những đoạn trích sau là những lời chia sẻ chân tình, trung thực và sâu sắc về quá trình phản tỉnh và rèn luyện của Benjamin Franklin – đúng như ý nghĩa sâu sắc của một cuốn tự truyện.

Rèn luyện kỹ năng viết


Vào khoảng thời gian này, ta tìm thấy một bộ sưu tập các tờ The Spectator kỳ lạ. Nó là bộ thứ ba. Ta chưa bao giờ thấy bộ nào như thế. Ta mua nó, đọc đi đọc lại và rất hài lòng.

Tờ báo the The Spectator (nguồn Internet)

Ta nghĩ rằng cách viết văn trong đó thật tuyệt vời và ước ao, nếu có thể, mình sẽ bắt chước.Với suy nghĩ đó, ta lấy vài trang trong bộ nhật báo và viết những gợi ý ngắn về ý chính của từng câu, bỏ đó vài ngày, rồi bắt đầu cố gắng viết lại những trang giấy đó mà không nhìn sách bằng cách diễn đạt những gợi ý đó dưới dạng câu dài và đầy đủ như trong nguyên bản bằng những từ ngữ thích hợp nhất mà ta có thể nghĩ ra. Sau đó ta so sánh bản The Spectator của mình với nguyên bản, phát hiện ra những lỗi sai và sửa chúng.


Rèn luyện kỹ năng tranh luận


Trong khi đang muốn nâng cao khả năng ngôn ngữ của mình, ta bắt gặp một cuốn ngữ pháp tiếng Anh. Cuối cuốn sách có hai đoạn tóm tắt nghệ thuật hùng biện và logic, đoạn tóm tắt thứ hai kết thúc với một ví dụ về tranh luận theo phong cách Socrates và ta nhanh chóng mua ngay cuốn Memorable Things of Socrates của Xenophon, cuốn sách có rất nhiều ví dụ về phong cách đó. Ta đã thực sự say mê, theo dõi và quẳng đi cái cách tranh cãi cộc lốc và những lý lẽ quả quyết của mình, thay vào đó là chiếc áo của một người hoài nghi và thẩm tra khiêm nhường. Và sau đó, do đọc Shaftesbury và Collins, ta trở thành kẻ thực sự hoài nghi ở rất nhiều luận điểm trong học thuyết tôn giáo mà chúng ta đang tin tưởng. Ta nhận thấy phương pháp tiếp cận này an toàn nhất cho bản thân mình và rất có thể khiến cho những kẻ chống lại ta cảm thấy bối rối. Vì thế, ta rất phấn khởi với nó, liên tục tập luyện, và phát triển một cách khéo léo cũng như thông thạo nghệ thuật khiến mọi người phải nhượng bộ ta, ngay cả những người có kiến thức cao hơn thông qua việc vẽ ra những kết quả mà họ không thấy trước được, bẫy họ trong những khó khăn mà họ không thể gỡ ra, và giành được những chiến thắng mà không phải lúc nào bản thân ta hay mục đích của ta cũng xứng đáng có được. Ta tiếp tục theo đuổi phương pháp này trong một vài năm tiếp theo nhưng dần rời bỏ nó, chỉ giữ lại thói quen thể hiện mình với thái độ rất khiêm tốn nhúng nhường. Khi gặp phải những sự việc có thể biến chuyển thành tranh luận, ta không bao giờ sử dụng những từ như chắc chắn, rõ ràng, hay những từ ngữ khác mang hơi hướng của sự quả quyết. Thay vào đó, ta nhìn nhận và nắm bắt vấn đề một cách chung chung….Và vì mục đích chính cuối cùng của bất kì cuộc hội thoại nào là để thông tin hoặc nhận thông tin, để làm vui lòng hay thuyết phục, ta hi vọng những người thiện chí và hiểu biết sẽ không làm suy giảm quyền lực của những điều tốt đẹp bằng một thái độ kiêu căng, quyết đoán. Thái độ đó thường bị khinh bỉ, tạo ra kẻ thù và đánh bật những người tham gia cuộc hội thoại với mục đích cho-nhận thông tin hay giải trí.


Rèn luyện phẩm hạnh


Cũng khoảng thời gian này, ta ấp ủ một kế hoạch táo bạo và đầy cam go để tiến đến sự hoàn thiện về phẩm hạnh…Ta đề ra cho bản thân ta, với mục đích rõ ràng, là nên phân biệt rạch ròi, thu hẹp các khái niệm và nên thêm số lượng các đức tính hơn là giới hạn số lượng trong khi khái niệm về mỗi đức tính lại quá rộng. Ta đưa ra tất cả 13 đức tính mà hiện tại ta cảm thấy cần thiết và mong muốn có được, kèm theo mỗi đức tính là một lời huấn thị ngắn, diễn đạt đầu đủ nghĩa cho từng đức tính. 13 đức tính, kèm theo lời huấn thị bao gồm:

13 phẩm hạnh cần rèn luyện của Benjamin Franklin (nguồn Internet)

  1. CHỪNG MỰC (TEMPERANCE). Không ăn đến chán; không uống quá nhiều.
  2. YÊN LẶNG (SILENCE). Chỉ nói những gì có lợi cho người khác hoặc bản thân; tránh những chuyện vặt vãnh không đâu.
  3. TRẬT TỰ (ORDER). Sắp xếp mọi thứ theo trật tự, và phân chia công việc theo thời gian dành riêng.
  4. KIÊN ĐỊNH (RESOLUTION). Quyết tâm làm điều phải làm, và đã làm thì làm cho bằng được.
  5. TIẾT KIỆM (FRUGARITY). Không tiêu pha gì khác ngoài những thứ tốt cho bản thân hoặc kẻ khác; tỉ như, không hoang phí bất cứ thứ gì.
  6. SIÊNG NĂNG (INDUSTRY). Không phí hoài thời gian vô ích; luôn sử dụng thời gian vào những việc có ích và loại bỏ những việc làm không cần thiết.
  7. THÀNH THẬT (SINCERITY). Không sử dụng mánh khóe để hại người, suy nghĩ ngay thẳng, công bằng và nói đúng những gì ta nghĩ trong đầu.
  8. CÔNG BẰNG (JUSTICE). Không làm điều xấu với bất cứ ai hay gạt bỏ bổn phận của bản thân phải mang lại lợi ích cho người khác.
  9. ĐIỀU ĐỘ (MODERATION). Tránh sự thái quá, hãy chịu đựng những tổn hại chừng nào vẫn còn cho đó là đủ.
  10. SẠCH SẼ (CLEANLINESS). Giữ gìn sạch sẽ bản thân, phục trang và nơi ở.
  11. THANH TỊNH (TRANQUILLITY). Không bị phân tâm hay lo âu bởi những điều vặt vãnh, hoặc những rủi ro thông thường hoặc bất khả kháng.
  12. THỦY CHUNG (CHASTITY). Điều tiết sinh dục, chỉ để duy trì sức khỏe và nòi giống, không vì chán nản, yếu đuối, hoặc làm tổn hại đến sự yên bình và thanh danh của bản thân và kẻ khác.
  13. KHIÊM NHƯỜNG (HUMILITY). Noi gương Chúa Trời và Socrates.

Ta quyết tâm dành một tuần để rèn luyện cho mỗi đức tính theo thứ tự trong danh sách. Do đó, trong tuần đầu tiên, ta cố gắng không phạm phải một lỗi nhỏ nào đến đức tính CHỪNG MỰC (TEMPERANCE), và tạm chưa quan tâm đến các đức tính bên dưới. Ta chỉ xem xét và đánh dấu vào sổ các lỗi vào mỗi buổi tối. Nếu tuần đầu tiên ta có thể giữ cho dòng đầu tiên CHỪNG MỰC, không bị đánh dấu, thì ta tin rằng những thói quen phù hợp với đức tính ấy đã được cải thiện đáng kể, và những thói quen xấu ngược lại với đức trên sẽ dần bị loại bỏ. Do đó, ta mạnh dạn tập trung rèn luyện đức tính này và đức tính tiếp theo. Trong tuần tiếp sau đó, cả hai dòng này đều không bị đánh dấu. Cứ tiếp tục như vậy, ta đã hoàn thành một đợt đầu tiên trong vòng 13 tuần, và ta sẽ làm 4 đợt như vậy trong 1 năm.

Bảng theo dõi quá trình rèn luyện phẩm hạnh của Benjamin (nguồn Internet)


Lời kết

Muốn đạt được bất kỳ thành tựu nào trong cuộc sống, bên cạnh tài năng cũng cần sự khổ luyện theo một phương pháp đúng đắn, có hệ thống và kiên trì. Tấm gương phấn đấu khổ luyện và những phương pháp của Benjamin Franklin xứng đáng là bài học vô giá cho những ai luôn “không hài lòng với chính mình”.